Just another WordPress site

Thức ăn giàu năng lượng cho gia súc

Nhóm thức ăn giàu năng lượng chiếm tỷ lệ lớn nhất trong thức ăn hỗn hợp (khoảng 50 – 70%). Nhóm này có thể chia thành các nhóm nhỏ như sau: 1) Thức ăn hạt hòa thảo (gạo, ngô, mỳ…); 2) Bột các loại củ (săn, khoai lang…); 3) Các loại cám; 4) Các loại bã, bông khô (bã bột mỳ, bã bột sắn, bỗng bia, bỗng rượu…).

Nội dung trong bài viết

  • Thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn giàu năng lượng
    • Nhóm thức ăn hạt hòa thảo
    • Nhóm thức ăn bột các loại củ
    • Nhóm các loại cám
    • Khoáng trong thức ăn giàu năng lượng
  • Vitamin trong thức ăn giàu năng lượng
Giá trị năng lượng trong các loại thức ăn giàu năng lượng (Kcal/lkg khô không khí)
Giá trị năng lượng trong các loại thức ăn giàu năng lượng (Kcal/lkg khô không khí)

Nhóm thức ăn hạt hòa thảo và bột các loại củ có năng lượng trao đổi trong 1 kg thức ăn vào khoảng trên dưới 2.500 – 2.600 Kcal đối với trâu bò, 2.700 – 2.800 Kcal đối với dê cừu, 3.200 – 3.300 Kcal đối với lợn và gia cầm. Nếu chỉ xét riêng về khía cạnh năng lượng thì năng lượng trao đổi của nhóm thức ăn này hoàn toàn thỏa mãn với yêu cầu năng lượng trong lkg thức ăn đối với các đối tượng lợn con theo mẹ và đang sinh trưởng, gia cầm nuôi thịt (3.100 – 3.200 Kcal/kg thức ăn), còn đối với các đối tượng vật nuôi khác (trâu, bò cày kéo, trâu, bò, dê, cừu, lợn vỗ béo và sinh sản, gà đẻ trứng (2.700 – 3.000 Kcal/kg thức ăn), thì nồng độ năng lượng này cao hơn so với yêu cầu. Điều này dẫn đến vật nuôi tích mỡ nhanh, nhiều làm giảm chất lượng sản phẩm hoặc sức sản xuất. Mặt khác giá tiền lkg thức ăn hạt khá cao làm cho chi phí thức ăn cho một đơn vị sản phẩm cũng cao. Để khắc phục hạn chế nêu trên, người ta phối hợp thức ăn hạt và bột các loại củ với các thức ăn có nồng độ năng lượng trao đổi trong lkg thấp hơn và giá lkg thức ăn cũng thấp hơn, ví dụ như cám gạo, cám mỳ, cám ngô và các loại bã, bỗng khô. Riêng đối với trâu, bò cày kéo, trâu, bò, dê, cừu vỗ béo thì có thể phối hợp với các loại thức ăn giàu xenlulo, rẻ tiền như bột lõi ngô, bột đầu mẩu sắn…

Nhóm các loại cám và bã, bỗng khô có năng lượng trao đổi trong lkg vào khoảng 2.300 – 2.500 Kcal đối với trâu, bò; 2.500 – 2.700 Kcal đối với dê, cừu; khoảng 2.100 – 2.800 Kcal đối với lợn và gia cầm. Nồng độ năng lượng này phù hợp với yêu cầu năng lượng trao đổi trong thức ăn của trâu, bò cày kéo, trâu, bò, dê, cừu vỗ béo và tiết sữa, lợn vỗ béo, lợn nái sinh sản, gà đẻ trứng và thấp hơn so với yêu cầu năng lượng trao đổi trong lkg thức ăn của trâu, bò, dê, cừu non (sữa thay thế), lợn con theo mẹ và sau cai sữa, gia cầm nuôi thịt ở các giai đoạn. Để giải quyết sự thiếu hụt này, cần phải phối họp với nhóm thức ăn hạt và bột các loại củ. Nhóm thức ăn cám và bỗng bã khô có ưu điểm là giá rẻ, nếu biết phối hợp khéo léo với các loại thức ăn khác thì vừa bảo đảm nhu cầu năng lượng cho vật nuôi, vừa giảm chi phí thức ăn trên một đơn vị sản phẩm.

Ngoài các loại thức ăn trên thì một số phế phụ phẩm như bột lõi ngô, bã dừa khô, bột đầu mẩu sắn… tuy có nồng độ năng lượng trao đổi trong lkg thấp nhưng lại có giá trị dinh dưỡng khá cao đối với gia súc nhai lại và giá lkg các loại phụ phẩm này lại rất rẻ. Không nên bỏ qua các loại nguyên liệu này trong thành phần thức ăn hỗn hợp của gia súc nhai lại.

Thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn giàu năng lượng

Thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn giàu năng lượng được trình bày ở các bảng.

Nhóm thức ăn hạt hòa thảo

Nhóm thức ăn này có tỷ lệ protein trên dưới 10%. So với tiêu chuẩn protein trong thức ăn của trâu, bò, dê, cừu thì nó đáp ứng đủ (trừ sữa thay thế của gia súc non), so với tiêu chuẩn protein trong thức ăn của lợn vỗ béo, lợn nái các giai đoạn thì đáp ứng được 60 – 70%, của lợn đang sinh trưởng, gia cầm đẻ trứng thì đáp ứng được 55 – 60%, của lợn con theo mẹ, sau cai sữa, gia cầm nuôi thịt, sữa thay thế của gia súc nhai lại thì đáp ứng được 45 – 50%.

Ngoài việc thiêu hụt protein so với tiêu chuẩn protein trong thức ăn như đã nêu trên, hàm lượng của các axit amin trong thức ăn hạt thường là thấp và mất cân đối. Đặc biệt, lysin trong thức ăn hạt có từ 0,27 – 0,64%, methionin có từ 0,13 – 0,24% và tryptophan có từ 0,08 – 0,21%. Trong khi đó, tiêu chuẩn trung bình của lysin, methionin, tryptophan trong thức ăn của lợn nái nuôi con là 0,8%; 0,24% và 0,17%. Như vậy, thức ăn hạt hòa thảo mới đáp ứng được > 34% lysin, >= 60% methionin, > 45% tryptophan so với yêu cầu thức ăn của lợn nái nuôi con, cũng tương tự như vậy so với yêu cầu lysin, methionin và tryptophan trong thức ăn của lợn con theo mẹ và sau cai sữa là 1,2; 0,3; 0,22% thì mới đáp ứng được bằng hoặc lớn hơn 23%; 43% và 36%, của gà nuôi thịt là 1,0; 0,4; 0,2% thì mới đáp ứng được bằng hoặc lớn hơn 27%; 32% và 40%; của gà đẻ trứng là 1,0; 0,5; 0,25% thì mới đáp ứng được bằng hoặc lớn hơn 27%; 26% và 32% so với yêu cầu về ba axit amin này của vật nuôi.

Thành phần hóa học của các loại thức ăn giàu năng lượng, (%)
Thành phần hóa học của các loại thức ăn giàu năng lượng, (%)
Hàm lượng axit amin trong các loại thức ăn giàu năng lượng (g/kg)
Hàm lượng axit amin trong các loại thức ăn giàu năng lượng (g/kg)

Sự thiếu hụt protein và axit amin của thức ăn hạt có thể bù đắp bằng cách phối hợp với các loại thức ăn giàu protein và giàu axit amin như bột cá, bột thịt, bột thịt xương, bột sữa khử bơ, đậu tương, khô dầu đậu tương. Trong trường hợp đã đủ về lượng protein nhưng vẫn còn thiếu về lượng của một số axit amin thì bổ sung axit amin tổng hợp vào thức ăn.

Các loại hạt hòa thảo thường có tỷ lệ lipit từ 2% đến 4%, trong khi đó nhu cầu lipit của lợn khoảng từ 1,0 – 1,5%, gia cầm 2,0 – 2,5%, trâu, bò, dê, cừu sinh trưởng từ 1,0 – 2%, trâu, bò, dê, cừu vỗ béo từ 2,0 – 4,0%. Như vậy lipit trong thức ăn hạt hòa thảo đáp ứng đủ nhu cầu của vật nuôi.

Tỷ lệ xơ trong thức ăn hạt hòa thảo thấp, khoảng từ 0,41 đến 2,90%. Tỷ lệ xơ này thường thấp hơn giới hạn về tỷ lệ xơ trong thức ăn của mọi đối tượng vật nuôi.

Thức ăn hạt hòa thảo có tỷ lệ dẫn xuất không chứa nitơ cao (trên dưới 70%), đây là nguồn năng lượng chính của thức ăn.

Nhóm thức ăn bột các loại củ

Nhóm thức ăn này có tỷ lệ protein rất thấp, thường khoảng trên dưới 2,5%.Yêu cầu tỷ lệ protein trong thức ăn của vật nuôi khoảng từ 12 – 22%. Như vậy, thức ăn bột các loại củ chỉ đáp ứng được khoảng 10 – 20% yêu cầu protein trong thức ăn của vật nuôi. Các axit amin trong thức ăn bột các loại củ thường có hàm lượng thấp, chỉ bằng khoảng 20 – 70% so với hạt hòa thảo. Trong đó, lysin, methionin, tryptophan so với ngô tẻ đỏ thì bằng 60%; 35% và 29%.

Sự thiếu hụt trầm trọng protein và axit amin của thức ăn bột các loại củ cần được bù đắp bằng thức ăn giàu đạm và giàu các axit amin thiết yếu, đồng thời phải bổ sung thêm các axit amin tổng hợp.


Lipit trong thức ăn bột các loại củ thường có tỷ lệ khoảng trên dưới 1,5%. Tỷ lệ này gần đáp ứng tiêu chuẩn lipit trong thức ăn của vật nuôi, trừ trâu, bò, dê, cừu tiết sữa.

Cũng như thức ăn hạt hòa thảo, tỷ lệ xơ trong thức ăn bột các loại củ rất thấp (trên 2%) và tỷ lệ dẫn xuất không chứa nitơ rất cao (75 – 80%). Cùng với thức ăn hạt hòa thảo, thức ăn bột các loại củ chiếm tỷ lệ lớn và là nguồn cung cấp năng lượng chính trong thức ăn hỗn hợp của vật nuôi.

Các nghiên cứu cho thấy phối hợp bột củ sắn với tỷ lệ 20 – 40% cho lợn con theo mẹ và sau cai sữa, 30 – 50% cho lợn thịt, 20 – 30% cho lợn nái, 20 – 30% cho gà thịt và gà đẻ trứng có sự cân đối đủ protein và axit amin trong thức ăn đã không ảnh hưởng xấu đến tăng trọng, chuyển hóa thức ăn, trái lại còn làm tăng tỷ lệ nuôi sổng của vật nuôi.

Nhóm các loại cám

Cám các loại hạt có tỷ lệ protein khoảng 13%, so với yêu cầu protein trong thức ăn của vật nuôi (12- 22%) thì đáp ứng khoảng 60 – 100%. Tỷ lệ axit amin trong cám khá cao, gần gấp hai lần so với hạt hòa thảo và đáp ứng khoảng 60 – 100% yêu cầu axit amin trong thức ăn của vật nuôi.

Tỷ lệ lipit trong các loại cám khá cao, khoảng từ 3 – 13% (trung bình khoảng 7%). Tỷ lệ này lớn hơn gấp 2 – 3 lần so với yêu cầu lipit trong thức ăn của vật nuôi. Điều đáng lưu ý là tỷ lệ axit béo không no trong cám chiếm tỷ lệ khá lớn (trên dưới 90%); nó dễ bị oxy hóa làm cho thức ăn bị hôi, khét khi bảo quản và làm cho mỡ của động vật có độ nóng chảy thấp, mùi vị không thơm ngon.

Tỷ lệ xơ trong cám khá cao, trung bình khoảng 7,5%. Tỷ lệ này cao hơn giới hạn cho phép tỷ lệ xơ trong thức ăn của bê, nghé non (sữa thay thế), lợn con theo mẹ và sau cai sữa, gia cầm nuôi thịt và đẻ trứng.

Lipit và xơ trong cám là hai yếu tố hạn chế đối với việc phối hợp cám vào thức ăn hỗn hợp với tỷ lệ lớn. Vì các hạn chế này, người ta khuyến cáo chỉ phối hợp cám vào thức ăn với tỷ lệ 10 – 15% cho lợn con theo mẹ, 15 – 25% cho lợn sinh trưởng, 25 – 30% cho lợn vỗ béo, 35 – 40% cho lợn nái chửa, 30 – 35% cho lợn nái nuôi con, 8 – 10% cho gia cầm dưới 4 tuần tuổi và 15 – 20% cho gia cầm còn lại.

Tỷ lệ dân xuất không chứa nitơ trong cám khá cao, khoảng trên dưới 50%. Đây cũng là một trong các nguồn cung cấp năng lượng chính trong khẩu phần ăn của gia súc, gia cầm.

Khoáng trong thức ăn giàu năng lượng

Hàm lượng một số khoáng trong thức ăn giàu năng lượng được trình bày ở bảng dưới.

Yêu cầu tỷ lệ Ca:P trong thức ăn của vật nuôi khoảng 1,5 – 2/1, nhưng tỷ lệ canxi trong thức ăn giàu năng lượng thường thấp hơn photpho (bằng khoảng 55 – 80% photpho). Ví dụ: Tỷ lệ canxi trong ngô 0,12%, còn photpho là 0,22%.

Tỷ lệ canxi trong thức ăn giàu năng lượng chỉ chiếm khoảng 0,1 – 0,15%, trong khi đó tiêu chuẩn tỷ lệ canxi trung bình trong thức ăn của lợn khoảng 0,7%, của gia cầm sinh trưởng khoảng 1,0%. gia cầm đẻ trứng khoảng 3%. Như vậy canxi trong thức ăn giàu năng lượng so với yêu cầu canxi trong thức ăn của lợn chỉ đáp ứng được 14 – 20% của gia cầm sinh trưởng đáp ứng được từ 10 – 15% và của gia cầm đẻ trứng đáp ứng từ 3 – 5%.

Canxi trong thức ăn giàu năng lượng thiếu hụt trầm trọng so với nhu cầu của vật nuôi; trong khi đó thức ăn này lại chiếm tỷ lệ lớn nhất trong thức ăn hỗn hợp. Vì vậy, cần phải bổ sung canxi vào thức ăn dưới các dạng bột đá vôi, bột dicanxiphotphat (DCP), bột vỏ sò, bột xương…

Khoáng trong các loại thức ăn giàu năng lượng (g, mg/kg thức ăn).
Khoáng trong các loại thức ăn giàu năng lượng (g, mg/kg thức ăn).

Photpho trong thức ăn giàu năng lượng thường có hàm lượng lớn hơn so với canxi. Tuy nhiên, hàm lượng này cũng chưa đáp ứng yêu cầu photpho trong thức ăn của vật nuôi (trừ cám gạo). Ví dụ: Hàm lượng photpho trong hạt ngũ cốc từ 0,19 – 0,31%, trong bột củ từ 0,14 – 0,28%, trong cám từ 0,44 – 1,12%. Nhóm thức ăn bột các loại củ có hàm lượng photpho thấp nhất, chỉ khoảng từ 0,14 – 0,28%. Trong khi đó, yêu cầu photpho tổng sổ trong thức ăn thường từ 0,5 – 0,8%. Bên cạnh sự thiếu hụt về số lượng, photpho trong thức ăn giàu năng lượng chủ yếu là photpho phytin (chiếm khoảng 65 – 70%). Dạng photpho này không những vật nuôi không tiêu hóa được mà còn gây ảnh hượng đến tiêu hóa của một số chất dinh dưỡng khác.


Để giải quyết vấn đề nêu trên, trong tiêu chuẩn thức ăn vật nuôi, người ta thường đưa ra hai chỉ tiêu là photpho tổng số và photpho dễ tiêu hóa, hoặc một chỉ tiêu là photpho dễ tiêu hóa. Phải căn cứ vào chỉ tiêu photpho dễ tiêu hóa để phối họp khẩu phần ăn cho vật nuôi. Ngoài ra, người ta còn bổ sung enzym phytaza vào thức ăn để phân giải photpho phytin thành dạng dễ tiêu nhằm tăng cường khả năng tiêu hóa photpho của vật nuôi và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Liều lượng enzym phytaza khoảng 100g cho một tấn thức ăn.

Thức ăn giàu năng lượng thường có hàm lượng sắt khoảng trên dưới 200 mg/kg thức ăn, trong khi đó nhu cầu sắt của vật nuôi chỉ khoảng từ 50 – 100 mg/kg thức ăn. Như vậy, thức ăn giàu năng lượng thường cung cấp đủ và dư thừa sắt so với yêu cầu thức ăn của vật nuôi.

Nhóm thức ăn giàu năng lượng thường có hàm lượng đồng từ 3 – 6 mg/kg thức ăn. Trong khi đó nhu cầu đồng trong thức ăn của vật nuôi khoảng trên dưới 10 mg/kg thức ăn. Vì vậy, sự thiếu hụt đồng là không tránh khỏi và cần phải bổ sung thêm đồng vào thức ăn cho vật nuôi. Khả năng hấp thụ đồng của vật nuôi phụ thuộc vào dạng tồn tại của đồng trong hợp chất: CuCO3 hấp thụ tốt hơn hoặc bằng (>) CuSO4 > CuSO2 > Cu2O > CuO. Vì thế người ta thường bổ sung đồng sunfat (CuSO4.5H2O) hoặc đồng liên kết với một số axit amin như: Cu – L – phenylalanin, Cu – L – valin, Cu – L – tyrosin vào thức ăn của vật nuôi.

Hàm lượng kẽm trong nhóm thức ăn giàu năng lượng thường có từ 10 – 30 mg/kg thức ăn, cá biệt có tới gần 100 mg/kg thức ăn. Yêu cầu kẽm trong thức ăn của gia súc nhai lại khoảng 25 – 45 mg, gia cầm từ 30 – 40 mg, lợn từ 50 – 100 mg/kg thức ăn. Như vậy, thức ăn giàu năng lượng chỉ đáp ứng 30 – 40% kẽm so với nhu cầu của vật nuôi. Việc bổ sung kẽm vào thức ăn là cần thiết. Tuy nhiên, canxi có ảnh hưởng xấu đến hấp thụ kẽm, nên người ta quy định tỷ lệ Ca:Zn trong thức ăn không vượt quá 125:1.

Hàm lượng mangan trong thức ăn giàu năng lượng thường từ 10 – 20 mg/kg thức ăn, riêng cám gạo có tới trên dưới 90 mg, cám mỳ gần 150 mg/kg thức ăn. Yêu cầu mangan của dê, cừu, lợn khoảng 25 – 50 mg, gia cầm khoảng 30 – 60 mg, trâu bò khoảng 30 – 60 mg/kg thức ăn. Trừ cám (gạo, mỳ), hàm lượng mangan trong thức ăn giàu năng lượng chỉ đáp ứng 30 – 40% nhu cầu mangan của vật nuôi. Vì vậy, cần phải bổ sung mangan vào thức ăn. Nâng cao tỷ lệ cám (gạo, mỳ) hợp lý trong khẩu phần cũng là một cách để giải quyết thiếu hụt mangan trong thức ăn hỗn hợp.

Hàm lượng các khoáng khác, như: Natri, clo, coban, iốt, selen… trong thức ăn giàu năng lượng: thường không đáp ứng nhu cầu của vật nuôi. Vì vậy, người ta thường bổ sung thêm các khoáng này vào thức ăn. Tuy nhiên, cẩn thận trọng về liều lượng iốt và selen để tránh tác dụng xấu của các khoáng này khi bổ sung liều lượng vượt quá nhu cầu của vật nuôi.

Vitamin trong thức ăn giàu năng lượng

Hàm lượng một số vitamin trong thức ăn giàu năng lượng (hạt hòa thảo và cám của chúng) được trình bày tại bảng dưới.

Hàm lượng vitamin trong các loại thức ăn giàu năng lượng (mg/kg thức ăn)
Hàm lượng vitamin trong các loại thức ăn giàu năng lượng (mg/kg thức ăn)

Trừ ngô (đỏ, vàng), hàm lượng caroten trong thức ăn giàu năng lượng rất thấp chỉ khoảng 1 – 3 mg/kg thức ăn, bột các loại củ hầu như không có caroten.

Nhu cầu vitamin A (UI/kg thức ăn) của lợn khoảng 3.000 – 6.000 UI (gần tương đương với 0,9 – 1,8 mg/kg thức ăn), của trâu, bò khoảng 6.000 – 8.000 UI (tương đương với 1,8 – 2,4 mg), của gia cầm khoảng 8.000 – 1.000 UI (tương đương với 2,4 – 3,0 mg). Trong khi đó, hiệu suất chuyển hóa caroten thành vitamin A của gia cầm là 1, lợn, ngựa là 0,5, trâu, bò là 0,15. Như vậy, yêu cầu caroten trong thức ăn phải tăng gấp đôi đối với lợn, ngựa và tăng gần 7 lần đối với trâu, bò. Điều đó cho thấy, trừ ngô (đỏ, vàng) còn các thức ăn giàu năng lượng khác đều thiếu caroten một cách trầm trọng.

Các loại thức ăn giàu năng lượng (hạt, cám ngũ cốc, bột các loại củ) không có vitamin D. Vì vậy, trâu bò sữa cần bổ sung cỏ khô vào khẩu phần, lợn nái, gia cầm sinh sản cần bổ sung bột lá thực vật, nấm men bia, vitamin tổng hợp.

Các loại thức ăn giàu năng lượng có hàm lượng vitamin nhóm B và PP khá cao, đặc biệt là B4 (có từ 400 – 1.300 mg/kg thức ăn). Có thể dùng thức ăn giàu năng lượng, đặc biệt là các loại cám như một nguồn bổ sung vitamin nhóm B và PP vào thức ăn cho vật nuôi.

Các loại thức ăn giàu năng lượng có hàm lượng vitamin nhóm E ở mức khá, khoảng từ 25 – 60 mg/kg thức ăn. Yêu cầu hàm lượng vitamin E (mg/kg thức ăn) của trâu, bò vào khoảng 30 – 40 mg, lợn và gia cầm khoảng 20 – 30 mg. Như vậy, thức ăn giàu năng lượng có thể đáp ứng đầy đủ vitamin E cho vật nuôi.