Bệnh giun đũa bê nghé
Bệnh giun đũa bê nghé (do Toxocara vitulorum) đã được phát hiện ở bê nghé nội, nghé của giống trâu sữa Murrah và bê của các giống bò sữa nhập nội
Nội dung trong bài viết
- Khu vực bê nghé thường bị bệnh giun đũa
- Đặc điểm sinh học của giun đũa
- Vòng đời đời của giun đũa
- Bệnh lý giun đùa ở bê nghé
- Biểu hiện lâm sàng khi bê nghé bị bệnh giun sán
- Chẩn đoán bệnh giun đũa ở bê nghé
- Dịch tễ học
- Phòng bệnh giun sán ở bê nghé
Khu vực bê nghé thường bị bệnh giun đũa
Bệnh giun đũa phân bố ở tất cả các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, bệnh đã được phát hiện ở bê nghé nội, nghé của giống trâu sữa Murrah và bê của các giống bò sữa nhập nội: Holstein Frisian, Sin, Brahmann… ở các vùng sinh thái từ Bắc đến Nam.
Đặc điểm sinh học của giun đũa
Hình thái: ỉà giun tròn ký sinh đường tiêu hoá lớn nhất ở trâu bò. Giun đực: dài 13 – 15cm, có mầu trắng đục hoặc trắng hồng, có một đôi gai giao hợp dài 0,95 – l,20mm và một màng mỏng bao bọc suốt chiều dài của thân.
Giun cái có mầu sắc giống giun đực, dài 19 – 23cm, chỗ rộng nhất 0,5cm. Âm hộ ở khoảng 1/8 trước thân. Đuôi hình nón dài 0,37 – 0,42mm. Trứng gần tròn, màng ngoài có cấu tạo như tổ ong, kích thước: 0,080 – 0,090 X 0,070 – 0,075mm.
Vòng đời đời của giun đũa
Giun cái sau khi giao phối đẻ trứng ở ruột non vật chủ; trứng theo phân ra ngoài môi trường, gặp các điều kiện thuận lợi: nhiệt độ từ 15 – 32°c, ẩm độ từ 70 – 90%, trứng phát triển thành ấu trùng ở bên trong gọi là trứng cảm nhiễm.
Bê nuốt phải trứng cảm nhiễm, vào đến dạ múi khế và ruột non, trứng này sẽ trở thành ấu trùng. Ấu trùng chui qua niêm mạc ruột, vào máu, du hành trong cơ thể của vật chủ, trở về phổi, kích thích niêm mạc đường hô hấp, gây ho. Khi ho, ấu trùng lên miệng bê và bê nuốt đờm rãi có ấu trùng trở về dạ dày, rồi về ruột. Ở ruột, ấu trùng phát triển thành giun trưởng thành, sau 43 ngày kể từ khi nuốt phải trứng cảm nhiễm, trong phân bê có trứng giun đũa.
Nếu cho bò mẹ nuốt trứng cảm nhiễm trirớc khi đẻ 124 – 192 ngày thì bê đẻ ra 20 – 21 ngày tuổi trong phân đã có trứng giun đũa. Điều này chứng tỏ ấu trùng giun đũa có thể qua máu vào bào thai.
Bệnh lý giun đùa ở bê nghé
Ấu trùng di hành đến một số khí quan như: phổi, gan và gây tổn thương ở đây. Khi giun đũa trưởng thành ký sinh ở ruột non với số lượng lớn sẽ gây tắc ruột; chui lên ống dẫn mật gây tắc ống dẫn mật.
Giun tiết ra độc tố làm cho bê nghé trúng độc, thể hiện ỉa chảy do rối loạn tiêu hoá,gầy sút nhanh.
Điều quan trọng là giun chiếm đoạt chất dinh dưỡng trong ruột bê, gây ra trạng thái suy nhược, thiếu máu ở bê.
Biểu hiện lâm sàng khi bê nghé bị bệnh giun sán
Bệnh ở bê tiến triển nhanh nhất là 5 ngày và chậm nhất là 48 ngày, phổ biến là 11 – 30 ngày. Bê thể hiện: dáng đi chậm chạp, đầu cúi, lưng cong, bệnh nặng dần, đau bụng, đôi lúc nằm giãy giụa; nhìn bên ngoài thấy: lông con vật dựng đứng, xơ xác, da nhăn nheo. Đặc biệt, vật bệnh thường ỉa lỏng, phân trắng xám hoặc trắng vàng, có mùi tanh khẳm, đôi khi có lẫn máu. Đây là triệu chứng điển hình của bê, nghé bị bệnh giun đũa nên còn được gọi là “bệnh bê • nghé ỉa phân tráng”.
Một số trường hợp bê có nhiễm khuẩn thứ phát nên sốt 40 – 41°c Khi bê ỉa chảy nặng, bị mất nước, rối loạn điện giải, thường chết sau 7-12 ngày, trước khi chết nhiệt độ giảm dưới mức bình thường (35°c – 37°C). Các trưòng hợp nhiễm giun nhẹ hơn, bệnh ở bê có thể kéo dài 15 – 20 ngày, sau đó bê chết trong tình trạng kiệt sức. Tỷ lệ bê chết từ 20 – 30% số bê bị bệnh.
Nếu được điều trị sớm, bê sẽ khỏi bệnh sau 5-10 ngày. Nhưng bê vẫn chậm lớn, giảm tăng trọng so vói bê khống bị bệnh giun đũa.
Bệnh tích: Mổ khám bê bị bệnh thấy: trong ruột non có nhiều giun đũa cuộn thành từng búi, đôi khi thấy giun ở dạ múi khế và ống mật; niêm mạc ruột non bị sung huyết và tróc niêm mạc do viêm cata; trong ruột có nhiều sữa vón cục, không tiêu hoá hết; đôi khi ở gan có các điểm hoại.tử trắng gây ra do ấu trùng giun
Chẩn đoán bệnh giun đũa ở bê nghé
-Chẩn đoán lâm sàng: hiện tượng ỉa lỏng, phân trắng, có mùi tanh khẳm có thể giúp cho việc xác định bệnh ở bê lứa tuổi 1-3 tháng.
-Chẩn đoán ký sinh trùng: Kiểm tra phân theo phương pháp phù nổi (Fulerbon) để tìm trứng giun đũa, có thể phát hiện 90 – 100% súc vật nhiễm giun.
Dịch tễ học
-Bò sữa cũng như trâu, bò nội ở các lứa tuổi đều nhiễm giun đũa. Nhưng bê, nghé ở lứa tuổi 3-10 tuần thường bị nhiễm giun với tỷ lệ cao, từ 15 – 30% và cường độ nhiễm cũng cao. Trong các trường hợp bị bệnh nặng, người ta có thể thấy bê 2 tháng tuổi nhiễm tới 500 – 800 giun đũa (Trịnh Văn Thịnh, Dương Công Thuận, 1978).
-Bò và trâu cái mang thai bị nhiễm giun có thể lây nhiễm cho nhau thai khi ấu trùng di hành trong máu • Súc vật cái trong thời gian nuôi con bị nhiễm giun cũng làm lây nhiễm giun cho con, vì ấu trùng giun có thể di hành qua máu và vào tuyến sữa.
-Mùa vụ của bệnh: bệnh xảy ra nhiều vào mùa sinh sản của trâu, bò, từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Bò sữa sinh đẻ quanh năm nên bệnh giun đũa cũng lây nhiễm quanh năm trong đàn bê sữa.
Có thể dùng một trong các hoá dược tẩy giun sau đây:
- Tetramisol: dùng liều 0,008 – 0,012g/kg thể trọng (8 – 12mg); cho bê uống một lần vào buổi sáng; tỷ lệ sạch giun sau khi dùng thuốc 90 – 96%.
- Piperazin adipinat: dùng liều 0,30 – 0,50g/kg thể trọng; trộn lẫn thức ăn hoặc pha nước cho uống một lần; tỷ lệ tẩy sạch giun đạt 90 – 92%.
- Ivermectin: dùng liều 0,2mg/kg thể trọng; thuốc tiêm một lần; tỷ lệ tẩy sạch giun đạt 90 – 95%.
Phòng bệnh giun sán ở bê nghé
- Sử dụng 1 trong 3 hoá dược trên tẩy định kỳ cho đàn bò 3 -4 tháng lần ở các cơ sở có lưu hành bệnh giun đũa. Tẩy dự phòng cho bê ở hai thcd điểm: 20 ngày tuổi và 30 ngày tuổi.
- Khử phân để diệt trứng giun.
- Giữ gìn vệ sinh chuồng trại, nguồn nước uống và khu vực chãn thả, có định kỳ sử dụng thuốc sát trùng như: Cresyl để diệt mầm bệnh